#023 | Thời điểm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng theo thỏa thuận

12/25/2023

Tình tiết sự kiện:

Công ty V (Nguyên đơn) ký hợp đồng mua cà phê với Công tư Đ (Bị đơn). Bên mua đã tạm ứng 18 tỷ VND nhưng Bên bán không giao cà phê nên hai Bên đã ký biên bản làm việc (ngày 04/03/2011) thống nhất chấm dứt quan hệ mua bán và Bên bán có trách nhiệm hoàn trả cho bên mua khoản tiền tạm ứng. Ở đây, các Bên có tranh chấp với nhau về thời điểm hoàn trả tiền và Hội đồng Trọng tài đã theo hướng xác định thời điểm phải hoàn trả là ngày 25/04/2011.

Bài học kinh nghiệm:

Theo khoản 1 Điều 285 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều 278 Bộ luật dân sự năm 2015, “Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ dân sự đúng thời hạn”, “Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn”. Quy định này áp dụng cho nghĩa vụ dân sự nói chung nên cũng áp dụng cho nghĩa vụ xuất phát từ thỏa thuận giữa các chủ thể (tức hợp đồng). Vấn đề tiếp theo là phải xác định được thời hạn nghĩa vụ phải được thực hiện.

Về cách xác định thời hạn thực hiện nghĩa vụ (hợp đồng), khoản 1 Điều 285 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều 278 Bộ luật dân sự năm 2015 nêu trên quy định “thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự do các bên thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật”, “Thời hạn thực hiện nghĩa vụ do các bên thỏa thuận, theo quy định của pháp luật hoặc theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền”. Ở đây, chúng ta căn cứ vào thỏa thuận của các bên. Nếu các bên không có thỏa thuận thì chúng ta mới xác định theo quy định của pháp luật. Trong thực tế, không hiếm trường hợp pháp luật quy định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Chẳng hạn, khoản 3 Điều 432 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 3 Điều 434 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “khi các bên không có thoả thuận về thời hạn thanh toán thì bên mua phải thanh toán ngay khi nhận tài sản” và “nếu không xác định hoặc xác định không rõ ràng thời gian thanh toán thì bên mua phải thanh toán ngay tại thời điểm nhận tài sản mua hoặc nhận giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản”.

Trong thực tế, cũng không hiếm trường hợp các bên không thỏa thuận về thời điểm thực hiện nghĩa vụ và pháp luật cũng không có quy định cụ thể. Trường hợp như vậy rất phổ biến khi các bên tiến hành thanh lý, chấm dứt quan hệ hợp đồng đã tồn tại giữa các bên. Trong trường hợp này, việc xác định thời điểm thực hiện nghĩa vụ sẽ tuân theo khoản 2 Điều 285 Bộ luật dân sự năm 2005 theo đó “trong trường hợp các bên không thoả thuận và pháp luật không quy định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự thì các bên có thể thực hiện nghĩa vụ hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải thông báo cho nhau biết trước một thời gian hợp lý”. Bộ luật dân sự năm 2015 kế thừa quy định vừa nêu với nội dung “trường hợp không xác định được thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại khoản 1 Điều này thì mỗi bên có thể thực hiện nghĩa vụ hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ vào bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo cho bên kia biết trước một thời gian hợp lý” (khoản 1 Điều 278).

Quy định như nêu trên vẫn chưa thực sự cụ thể. Trong thực tiễn xét xử, Hội đồng thẩm phán theo hướng thời điểm thực hiện là thời điểm bên có quyền yêu cầu thực hiện. Chẳng hạn, năm 2001, ông D gửi đại lý của bà M một số lượng cà phê. Khoảng tháng 01/2004, hai bên chốt giá và quy thành tiền là 31.282.500 VND. Do bà M không trả tiền nên ông D khởi kiện. Các bên đều thống nhất khoản tiền gốc nêu trên nhưng không thống nhất với nhau về thời điểm bắt đầu tính lãi chậm thanh toán. Theo Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, “lẽ ra, Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm buộc vợ chồng bà M phải trả cho ông D 31.282.500 VND và tính lãi từ thời điểm ông D có yêu cầu đòi tiền mới đúng”[1]. Với hướng này, chúng ta hiểu rằng bên có nghĩa vụ phải thực hiện (nếu không thực hiện thì chịu hậu quả của chậm thực hiện) ở thời điểm bên có quyền yêu cầu nếu các bên không có thỏa thuận hay văn bản không có quy định về thời điểm thực hiện.

Quay trở lại vụ việc trên, xuất phát từ “nội dung Biên bản cấn trừ công nợ ngày 07/03/2011 và thấy rằng các Bên đã cùng nhau chốt nợ và xác định rằng đến ngày 25/04/2011, Bị đơn nợ Nguyên đơn số tiền là 3.157.200.000 VND”, Hội đồng Trọng tài “hiểu rằng ngày 25/04/2011 chính là ngày Bị đơn có nghĩa vụ trả nợ cho Nguyên đơn; trong trường hợp Bị đơn không trả nợ gốc vào ngày 25/04/2011, lãi chậm thanh toán cũng sẽ được tính từ ngày kế tiếp sau ngày này”. Ở đây, Hội đồng Trọng tài đã dựa vào những thông tin của hồ sơ để “hiểu rằng ngày 25/04/2011 chính là ngày Bị đơn có nghĩa vụ trả nợ cho Nguyên đơn”. Hội đồng Trọng tài đã suy luận rằng các Bên đã thỏa thuận “ngầm” rằng ngày trên chính là ngày phải thực hiện nghĩa vụ.

Phần trên đã cho thấy khó khăn trong việc xác định thời điểm thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng cũng như cách thức xác định thời điểm thực hiện nghĩa vụ (hợp đồng). Hội đồng Trọng tài đã phải suy luận để tìm ra ý chí của các bên về thời điểm phải thực hiện. Việc suy luận này không thể không bị ảnh hưởng bởi yếu tố chủ quan của cơ quan tài phán. Do đó, đối với thời điểm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và nhất là đối với nghĩa vụ hoàn trả tiền sau khi thanh lý, chấm dứt hợp đồng như vụ việc trên, các bên nên thỏa thuận rõ về thời điểm thực hiện để tránh phải áp dụng quy định nêu trên và cũng tránh được suy luận của cơ quan tài phán (luôn hàm chứa yếu tố chủ quan của người được trao quyền đánh giá).

 

[1] Quyết định số 102/2013/DS-GĐT ngày 14/08/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

*Tuyên bố bảo lưu: Bài viết được đăng tải với mục tiêu cung cấp thông tin có giá trị tham khảo đối với các Trọng tài viên, các bên tranh chấp, những người tham gia tố tụng trọng tài cũng như những người đang nghiên cứu và tìm hiểu về phương thức trọng tài thương mại và không có bất kỳ mối liên hệ hay có mục đích nhằm thể hiện ý kiến, quan điểm của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). Mọi sự dẫn chiếu, trích dẫn từ bên thứ ba bất kỳ đến một phần hoặc toàn bộ nội dung tại bài viết này đều không có giá trị và không được VIAC thừa nhận. 

Tin liên quan

  • VCCI
    VIBOnline
    Trường đại học ngoại thương
    Trường Đại Học Luật
    VCCI